Quan hệ giao tiếp trong trường được thể hiện ở rất nhiều
mối quan hệ, quan hệ thầy với trò, quan hệ trò với trò, thấy với thầy, cán bộ
quản lý với nhân viên, cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên với phụ huynh, …Các
mối quan hệ giao tiếp cá nhân này nhiều khi lại đại diện cho mối quan hệ tập
thể, ví dụ, giữa nhà trường với phụ huynh, giữa lãnh đạo với quần chúng.
Các mối quan hệ giao tiếp nói trên sẽ tốt nếu những người
tham gia vào quá trình giao tiếp ấy có lương tâm trong sáng, hiểu biết về cái
đẹp và nắm được các nguyên tắc giao tiếp.
Sự non nớt, lung túng, vụng về nhưng chân thực trong giao
tiếp có thể cảm thông, nhưng không thể chấp nhận những cử chỉ giao tiếp giả
dối. Nhiều khi người ta bị hại về những hành vi giao tiếp giả dối, có vẻ có văn
hóa nhưng thực chất không có văn hóa này.
Văn hóa là sự sống có ý thức, văn hóa là những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo trong quá trình lịch sử (1), mang
đậm bản sắc dân tộc. Tính giá trị của
văn hóa thể hiện ở chổ nó có giá trị thúc đẩy sự sống chân chính phát triển.
Những hành vi giao tiếp có tác dụng góp phần làm cho con người tốt hơn, thúc
đẩy cuộc sống chân chính phát triển tốt hơn, mới được gọi là hành vi ứng xử,
giao tiếp có văn hóa.
Nội dung giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường rất
nhiều. Nhưng chúng tôi cho rằng nội dung quan trọng nhất đó là giáo dục về chữ
tâm. Người có cái tâm tốt là người có cái nhìn nhân hậu đối với con người, mong
mọi người được tốt hơn, người xấu trở thành tốt, người tốt trở nên tốt hơn.
Lương tâm trong sáng là chiếc gương
soi để mọi người tự kiểm tra sự trong sáng trong hành vi giao tiếp của mình.
Không ít trường hợp, hành vi giao tiếp đã không bộc đúng bản chất thật của con
người. Một học trò chào thầy giáo khi chưa có kết quả học tập chưa đủ để khẳng
định học trò này giao tiếp có văn hóa? Sau khi đủ điểm thi, người học trò này
có thể không chào thầy giáo đã dạy mình nữa! Đây có lẽ không phải là hiện tượng
hy hữu trong nhà trường. Một học trò gặp thầy giáo, vô tình hay vì một lý do
nào đó, đã không chào hay chậm chạp trong chào hỏi, cũng chưa đủ để kết luận
người học trò này không lễ phép với thầy giáo dạy mình, thiếu hay yếu về văn
hóa? Cái có thể cho chúng ta lời giải đáp đúng đắn nhất đó là cái tâm của người
học trò này. Người học trò này có văn hóa hay không, ở những hành vi cụ thể, có
lẽ chỉ có người đó biết. Muốn đánh giá được bản chất văn hóa của một người nào
đó chúng ta phải xem xét hành vi ứng xử văn hóa của họ trong hệ thống.
Giáo dục chữ tâm – với nghĩa là lương tâm, nhân tâm, chữ
tâm trong sáng – cho các thành viên trong nhà trường không đơn giản chút nào.
Chúng tôi quan niệm, mọi thành viên trong nhà trường đều là những chủ thể và
khách thể của văn hóa giao tiếp học đường, đều là đối tượng cần được giáo dục
về chữ tâm. Ngay những người đã có cái tâm trong sáng, việc bồi dưỡng thêm về
chữ tâm cũng không thừa, điều này chỉ làm cho chữ tâm của họ trong sáng, phong
phú thêm lên.
Làm thế nào để giáo dục chữ tâm có
hiệu quả? Điều này còn tùy thuộc vào đối tượng, cấp học. Mỗi cấp học, mỗi đối
tượng có cách giáo dục khác nhau. Cách dạy của Khổng Tử về chữ Nhân đối với học trò đã cho chúng ta bài
học này. Cha ông chúng ta rất chú ý giáo dục chữ tâm – nhân tâm - cho con em mình, chú ý giáo dục từ đầu đời của mỗi con
người. Lớp học đầu tiên của trẻ được gọi là lớp vỡ lòng, lớp khai tâm.
Những ấn tượng có được từ đầu đời này sẽ ảnh hưởng suốt cuộc đời của mỗi con
người. Xem ra cái lòng, cái tâm quan trọng biết chừng nào. Nội dung
và hình thức giáo dục về chữ tâm – nhân tâm – rất phong phú, sinh động, tùy vào
từng loại đối tượng, tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể, như chúng tôi vừa nói ở
trên. Chúng ta phải vừa coi trọng tính tự giác vừa
coi trọng việc bắt buộc trong giáo dục chữ tâm cho con người.
Sau chữ tâm, chúng
tôi nghĩ cần giáo dục cho mọi người
trong trường chuẩn mực về cái đẹp.
Trên hai cơ sở này, người ta sẽ tìm được hành vi ứng xử giao tiếp thích hợp.
Văn hóa gắn liền với cái đẹp. Cái tốt gắn liền với cái đẹp. Vì “biết rung cảm trước cái đẹp sẽ
rất khó làm điều xấu”. (2)
Có được cái tâm tốt, có được quan niệm về cái đẹp đúng,
người ta sẽ có hành vi ứng xử văn hóa đúng, đẹp. Nhiều khi không cần lời chào,
chỉ một cái gật đầu, chỉ một ánh mắt, con mắt là cửa sổ tâm hồn, như có người
đã nói, .. cũng là hành vi ứng xử có văn hóa rồi. Những hành vi ứng xử phi ngôn ngữ ấy rất quan trọng đối với
con người. Sự giao tiếp trong tình yêu, ban đầu, nhìn chung là sự giao tiếp phi
ngôn ngữ. Sự giao tiếp phi ngôn ngữ ấy thường là sự mở đầu cho hạnh phúc của
những gia đình mới. Sự giao tiếp đó quan trọng biết chừng nào. Cái gì đã tạo ra
hiệu quả của hành vi giao tiếp không lời đó? Đó là cái tâm, đó là ý thức về cái
đẹp của chủ thể và khách thể giao tiếp trong kênh thông tin.
Dân gian có câu: Lời
nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau, nhưng cũng có
câu: Im lặng là vàng. Cả hai câu đều
đúng. Đó hình thức giao tiếp linh hoạt của con người.
Người ta đã nói tới nhiều những quy định về hành vi, cử
chỉ, lời nói, … ở dạng hiển ngôn, mà không chú ý hay chưa chú ý đến những quy
định về ứng xử văn hóa ở dạng phi ngôn ngữ. Trong thực tế đời thường, sự tồn
tại và biểu hiện của giao tiếp phi ngôn ngữ rất nhiều, thậm chí nhiều hơn ngôn
ngữ giao tiếp trực tiếp.
Nếu không có hai cơ sở trên, thì dù có quy định hình thức
ra hỏi, về chào, … và người ta thực
hiện nghiêm túc bao nhiêu đi nữa thì bản chất văn hóa đích thực của văn hóa
giao tiếp vẫn không có được. Những hành vi có vẻ có văn hóa trong giao tiếp bề
ngoài nhiều khi lại chứa đựng bản chất vô văn hóa bên trong, sự dối lừa, nếu họ
không trung thực với nhau, không ưa nhau, không có cái tâm trong sáng.
Nói như trên, không có nghĩa là chúng tôi phản đối việc
xây dựng các chuẩn mực giao tiếp trong nhà trường, phản đối tổ chức các hoạt
động rèn luyện về giao tiếp, … Những hoạt động đó cũng cần thiết, nhưng ưu tiên
hàng đầu phải là sự giáo dục về chữ tâm,
tiếp đó là sự giáo dục về chữ mỹ,
giáo dục về cái đẹp của con người, của văn hóa ứng xử.
Một nội dung quan trọng thứ ba cần giáo dục cho mọi thành
viên trong trường, đó là giáo dục các nguyên
tắc giao tiếp. Nguyên tắc giao tiếp là nơi thể hiện cái tâm và cái đẹp
trong quan hệ giao tiếp ứng xử giữa con người với con người.
Mác đã khẳng định, về
bản chất, con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội. Di truyền tạo ra nhân
hình, giao tiếp tạo ra nhân tính
ở mỗi con người. Ở những môi trường khác nhau, con người có những hành vi giao
tiếp khác nhau. Nói như vậy không có nghĩa là không có cái chung, cái chung đó
là chất văn hóa của giao tiếp. Giao
tiếp đó phải có văn hóa, nghĩa là
phải có tính chất người, phải góp phần
cho sự phát triển chất người chân chính. Điều đó có nghĩa là không phải
giao tiếp lúc nào cũng cần sự hòa nhã, cảm thông, nhẹ nhàng. Văn hóa “trọng âm”
của người Việt đã tạo ra chuẩn tắc ứng xử: “Lời
nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Thực ra không ít
lúc lời nói trực tiếp không vừa lòng nhưng lại rất cần thiết, “Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng”.
Hành động nói thật này lại có chất
văn hóa cao, vì sau hành động nói thật đó, một sự điều chỉnh đã có thể xảy ra,
người được góp ý sống tốt hơn, có văn hóa hơn. Sự thẳng thắn trong giao tiếp là một nguyên tắc cần bồi dưỡng cho học
sinh, sinh viên trong nhà trường. Trong giao tiếp hiện đại, thời kỳ hội nhập,
sự thẳng thắn là một trong những nguyên tắc mới cần được nhấn mạnh. Thấy một
người có lỗi, vì tế nhị, tôi không nói, hay không nói thẳng, không nói đủ cho
họ hiểu về lỗi lầm của họ, để họ tiếp tục phạm lỗi, thì đó là cái lỗi của tôi,
là sự hạn chế trong văn hóa giao tiếp của tôi.
Tôn sư, trọng đạo là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của dân tộc. Nhưng, trong thực tế ứng
xử, người ta nhấn mạnh cái tôn sư,
còn cái trọng đạo thì không chú ý
mấy, hoặc thậm chí không chú ý đến điều này. Trong đạo, phải làm cho cái đạo
làm người chân chính giữ được vị trí ưu thắng. Nếu thầy có lỗi, vi phạm đạo đức
của người thầy, thì học sinh, sinh viên cần đóng góp ý kiến cho thầy, đó mới là
trọng đạo. Nhưng thực tế là, nếu học sinh, sinh viên làm điều này thì có khi
lại bị coi là không tôn sư. Đó là một
nhận thức không đầy đủ, cần có sự uốn nắn, điều chỉnh.
Chúng tôi muốn nói, ngoài những nguyên tắc giao tiếp
truyền thống, chúng ta cần xác lập và giáo dục cho học sinh, sinh viên những nguyên tắc mới, phù
hợp với hoàn cảnh mới.
Nguyên tắc giao tiếp và cũng là mục tiêu của giao tiếp là phải có văn hóa, phải đảm bảo tính giá
trị của văn hóa, góp phần làm cho quan hệ giữa những người giao tiếp được
tốt hơn.
Hình thức giao tiếp thể hiện nguyên tắc giao tiếp này rất đa dạng. Tùy vào từng hoàn cảnh khác
nhau, người ta có những hành vi giao tiếp khác nhau. Có những hành vi thiên về
tình, có những hành vi thiên về lý, có những hành vi vừa thấu lý vừa đạt tình,
tất cả những hành vi đó đều có văn hóa nếu đạt được mục tiêu, nguyên tắc nói
trên.
Có thể và cần xây dựng những hình thức giao tiếp cụ thể ở
các cấp học cụ thể, chứ rất khó xây dựng các hình thức giao tiếp chung cho các
cấp học. Ở cấp độ chung, có lẽ chỉ nên xây dựng các nguyên tắc giao tiếp.
Nguyên tắc giao tiếp thì hữu hạn, còn hình thức giao tiếp có thể nói là vô hạn,
vì trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau, mỗi người có cách giao tiếp khác
nhau.
Tóm lại, giáo dục văn hóa giao tiếp trong các nhà trường là một việc làm cần thiết.
Lâu nay, nhà trường nhìn chung thiên về dạy chữ, dạy tri thức, ít chú ý dạy
cách giao tiếp giữa con người với con người. Trong nhiều giải pháp giáo dục văn
hóa giao tiếp cho con người, có lẽ những giải pháp quan trọng nhất, có tính
quyết định chất lượng văn hóa giao tiếp trong các nhà trường, văn hóa học
đường, đó là giáo dục cái tâm, giáo dục cái đẹp và xây dựng các nguyên tắc giao
tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét